Chất làm đầy là gì? Các công bố khoa học về Chất làm đầy

Chất làm đầy là những chất được sử dụng để làm đầy, lấp đầy hoặc tăng thể tích của một vật liệu, hỗ trợ trong quá trình sản xuất, xây dựng, sửa chữa hoặc làm đẹ...

Chất làm đầy là những chất được sử dụng để làm đầy, lấp đầy hoặc tăng thể tích của một vật liệu, hỗ trợ trong quá trình sản xuất, xây dựng, sửa chữa hoặc làm đẹp. Chất làm đầy có thể có nhiều dạng khác nhau như chất lỏng, chất rắn hoặc bột. Các chất làm đầy thường được thêm vào các sản phẩm như sơn, xi măng, nhựa, mỹ phẩm, thức ăn, thuốc nhuộm, giấy và nhiều ngành công nghiệp khác để cải thiện tính chất của sản phẩm hoặc tạo hiệu ứng như độ bóng, độ mịn, độ nhám, tăng độ cứng, tăng khối lượng, và làm giảm chi phí.
Các chất làm đầy được sử dụng trong các ngành công nghiệp khác nhau có thể có tính chất và công dụng khác nhau. Dưới đây là một số chất làm đầy phổ biến và việc sử dụng của chúng:

1. Chất làm đầy trong sơn: Trong ngành sơn, chất làm đầy thường được sử dụng để tăng độ đặc và cải thiện tính chất thao tác của sơn. Các loại chất làm đầy thông dụng bao gồm cacbonat canxi, talc, titan dioxit, silicat nhôm và các loại polymer.

2. Chất làm đầy trong xi măng: Trong sản xuất xi măng, chất làm đầy được sử dụng để tăng độ bền cơ học và khối lượng của xi măng. Các loại chất làm đầy như đá vôi, cát silica, tro bay và tro nghiền có thể được sử dụng để làm đầy trong xi măng.

3. Chất làm đầy trong nhựa: Các chất làm đầy nhựa thường được sử dụng để tăng độ nhám, độ bết dính và khối lượng của nhựa. Các loại chất làm đầy thông dụng bao gồm silica, talc, cao su, bột sứ, bột alumina và mica.

4. Chất làm đầy trong mỹ phẩm: Trong công nghiệp mỹ phẩm, chất làm đầy thường được sử dụng để làm mịn và tạo hiệu ứng mờ, cung cấp độ bền cho các sản phẩm mỹ phẩm. Các chất làm đầy như bột tinh thể, tinh chất cây cỏ, bột ngọc trai và bột sáp có thể được sử dụng trong mỹ phẩm.

5. Chất làm đầy trong thức ăn: Trong ngành công nghiệp thực phẩm, chất làm đầy thường được sử dụng để tăng khối lượng, cải thiện độ nhám và cung cấp cấu trúc cho thức ăn. Các chất làm đầy thông dụng bao gồm bột mì, bột ngô, bột sữa, tinh bột và cellulose.

6. Chất làm đầy trong giấy: Trong ngành sản xuất giấy, chất làm đầy được sử dụng để tăng độ dày và độ mịn của giấy. Các chất làm đầy thông dụng bao gồm cao su, bột talc, phụ gia giấy và cacbonat canxi.

Những chất làm đầy này được thêm vào các sản phẩm để cải thiện tính chất của chúng, tạo hiệu ứng đẹp, cải thiện hiệu suất và giảm chi phí sản xuất.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "chất làm đầy":

Biến chứng sau tiêm làm đầy ngực polyacrylamide: báo cáo 1 ca lâm sàng
 Bệnh nhân nữ 42 tuổi, tiền sử tiêm polyacrylamide hydrogel ngực cách 18 năm vào viện vì đau tức,sưng nề vú 2 bên. Vú phải có khối sưng nề lớn, ấn căng, gây biến dạng nặng. Vú trái sưng nề nhẹ, ấnkhông rõ khối. Đây là một chất làm đầy không phân hủy từng được sử dụng phổ biến tại Trung Quốc, ĐôngÂu, hiện đã bị cấm sử dụng tiêm làm đầy ngực do nhiều biến chứng muộn nghiêm trọng.1,2 Trên phim MRIvú 2 bên thấy hình ảnh bao xơ nằm trước cơ ngực lớn, ngấm thuốc mạnh, lòng chứa dịch tăng ít tín hiệu.Bệnh nhân được điều trị phẫu thuật qua đường mổ nửa dưới quầng vú, cắt bỏ bao xơ, lấy bỏ dịch trongbao có tính chất dạng lỏng hơi sệt vàng nhạt giống sữa, lợn cợn nhiều cặn nhỏ và cắt 1 phần tuyến thâmnhiễm cứng. Giải phẫu bệnh cho thấy phản ứng viêm hạt dị vật. Sau mổ, bệnh nhân hết đau. Sau 2 tháng,hình dạng vú 2 bên tương đối cân xứng, da vú co hồi tốt, sờ mềm mại, không có dịch tồn dư hay tái phát.
#Biến chứng chất làm đầy #Polyacrylamide #tiêm chất làm đầy ngực
Sử dụng chat GPT làm công cụ hỗ trợ trong việc dạy và học ngành truyền thông
Trong thời đại công nghệ số, Chat GPT (Generative Pre-trained Transformer) là một trong những công nghệ tiên tiến nhất trong lĩnh vực xử lý ngôn ngữ tự nhiên. Chat GPT là một mô hình học sâu được huấn luyện trước trên dữ liệu lớn, có khả năng tự sinh ra các văn bản có ý nghĩa. Sử dụng Chat GPT làm công cụ hỗ trợ trong việc dạy và học truyền thông có thể giúp nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập. Mục tiêu của nghiên cứu này là làm rõ những vấn đề nảy sinh, sự thay đổi trong quy trình dạy và học khi Chat GPT được sử dụng làm công cụ hỗ trợ. Đối tượng chính là sự thay đổi của hoạt động dạy và học truyền thông khi dùng Chat GPT. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phân tích tư liệu thứ cấp, điều tra xã hội học, phỏng vấn định tính. Kết quả nghiên cứu là làm sáng tỏ thay đổi trong dạy và học truyền thông khi có Chat GPT, đồng thời đưa ra dự báo về triển vọng dùng Chat GPT như công cụ hỗ trợ. Kết luận: Đưa ra được kết luận mang tính cốt lõi về sự tác động của Chat GPT đến việc dạy và học ngành truyền thông. Kiến nghị: Đưa ra được những kiến nghị về công tác đào tạo ngành truyền thông ở đại học trong điều kiện mới.
#Truyền thông #Chat GPT #giảng dạy #học tập #công cụ
ĐIỀU TRỊ THÀNH CÔNG BIẾN CHỨNG MÙ MẮT DO TIÊM CHẤT LÀM ĐẦY THẨM MỸ: TRƯỜNG HỢP ĐẦU TIÊN Ở VIỆT NAM
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 499 Số 1-2 - 2021
Đặt vấn đề: Với sự gia tăng sử dụng chất làm đầy axit hyaluronic (HA) trong thẩm mỹ trên toàn thế giới, các biến chứng tắc mạch nghiêm trọngnhư mù mắt, liệt nửa người, hoại tử da ngày càng tăng. Nó có thể để lại các di chứng trầm trọng ảnh hưởng đến chức năng và thẩm mỹcủa bệnh nhân (BN). Theo y văn thế giới số ca cứu được một phần thị lực từ chỗ mù hoàn toàn cũng chỉ có 2-3ca. Đối tượng và phương pháp: Chúng tôi báo cáo một trường hợp BN bị mất thị lực toàn bộ, thiếu máu da đe dọa hoại tử trán mũi, sụp mi ngay sau tiêm HA tạo hình mũi trái phép tại Spa. BN đã được điều trị cấp cứu tối khẩn cấp đa chuyên khoa, phối hợp đa phương thức cùng với can thiệp mạch, tiêm thuốc giải Hyaluronidase trực tiếp vào lòng động mạch mắt 2 lần. Kết quả: từ chỗ mất thị lực toàn bộ 2 lần, thị lực BN hồi phục đến 20/200, BN có thể đọc sách, điện thoại vàcũng có thể nhìn rõ đồ vật từ khoảng cách 5m. Kết luận: Qua ca bệnh thành công  đầu tiên của Việt Nam chúng tôi nhận thấy mô hình đa phương thức, phối hợp đa chuyên khoa Tạo hình Thẩm mỹ, Mắt, Chẩn đoán hình ảnh, can thiệp mạch và Hồi sức có thể là giải pháp điều trị các biến chứng nghiêm trọng này một cách tối ưu nhất.
#Biến chứng tiêm chất làm đầy #axit Hyaluronic #tiêm Hyaluronidase trong lòng động mạch #sự tắc mạch #động mạch mắt #thị lực
4. Loạt ca lâm sàng: Áp xe phần mềm khởi phát muộn sau tiêm chất làm đầy Acid Hyaluronic
Tiêm chất làm đầy Acid Hyaluronic vùng mặt tuy là kỹ thuật ít xâm lấn nhưng nhiều biến chứng đã được ghi nhận trên lâm sàng. Tác giả giới thiệu 3 ca lâm sàng bị áp xe khởi phát chậm sau khi tiêm chất là đầy vùng mặt ở SPA. Thời gian khởi phát nhiễm trùng từ 1 - 3 năm sau tiêm. Vi khuẩn cấy từ ổ áp xe là P. aeruginosa hoặc S. aureus, đều nhạy với nhiều loại kháng sinh. Các bệnh nhân được điều trị hiệu quả bằng trích rạch áp xe và dùng kháng sinh toàn thân. Nguyên nhân gây ra áp xe muộn ở vùng được tiêm chất làm đầy chưa thực sự rõ ràng. Giả thuyết sự hình thành bao biofilm giữ vi khuẩn không tiếp xúc với mô và nằm im trong thời gian dài liên quan đến chất làm đầy không rõ nguồn gốc hoặc chưa đảm bảo vô trùng trong kỹ thuật tiêm hoặc nhiễm trực tiếp từ da do chất làm đầy được tiêm sát các nang lông và tuyến bã được cho là nguyên nhân khởi phát áp xe muộn. Dẫn lưu và kháng sinh toàn thân là giải pháp hiệu quả cho loại biến chứng này.
#Áp xe #chất làm đầy #acid hyaluronic #khởi phát muộn #màng sinh học
Nghiên cứu hiệu quả và an toàn của chất làm đầy acid hyaluronic và calcium hydroxyapatite trong trẻ hóa bàn tay
Mục tiêu: So sánh hiệu quả và an toàn của hai chất làm đầy acid hyaluronic và calcium hydroxyapatite trong trẻ hóa bàn tay. Đối tượng và phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên mù đơn trên 22 phụ nữ từ 27-64 tuổi, lão hóa bàn tay mức độ 2 trở lên theo thang điểm lão hóa bàn tay của Merz (Merz Hand Grading Scale- MHGS) tại Bệnh viện Da liễu TP. Hồ Chí Minh. Đối tượng được tiêm ngẫu nhiên 1 tay với HA (Restylane lyft) và tay còn lại với CaHA (Radiesse). Thời điểm đánh giá là ngay sau tiêm, 2 tuần, 4 tuần và 12 tuần bao gồm chỉ số đau, tác dụng phụ, chỉ số cải thiện thẩm mĩ theo thang điểm Global Aesthetics Improvement Scale (GAIS), thang điểm hài lòng. Bác sĩ chuyên gia bị làm mù đánh giá chỉ số cải thiện GAIS và thang điểm lão hóa MHGS. Kết quả: Cả 2 chất làm đầy HA và CaHA đều có hiệu quả cải thiện độ lão hóa bàn tay theo thang điểm MHGS, trung bình giảm 1,6-2,3 độ lão hóa. GAIS cải thiện từ vừa đến ngoạn mục theo đánh giá của bệnh nhân và bác sĩ chuyên gia. Tất cả bệnh nhân cảm thấy hài lòng đến rất hài lòng về kết quả điều trị tại các mốc ngay sau tiêm, 2 tuần, 4 tuần, 12 tuần. Nhóm tuổi ≤ 45 hoặc MHGS trước tiêm ≤ 2 hài lòng hơn với tay tiêm CaHA, nhóm tuổi > 45 hay MHGS trước tiêm > 2 hài lòng hơn với tay tiêm HA. Tác dụng phụ bao gồm đau, phù, đỏ da ở bàn tay tiêm CaHA (54-63%) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với bàn tay tiêm HA (14-27%) (p<0,05), các tác dụng phụ này nhẹ và tự giới hạn trong 2-3 ngày. Không ghi nhận tác dụng phụ nào nghiêm trọng. Kết luận: Hai chất làm đầy HA và CaHA đều có hiệu quả trong trẻ hóa bàn tay với tác dụng phụ nhẹ và tự giới hạn. CaHA thường gặp tác dụng phụ hơn HA.
#Trẻ hóa bàn tay #chất làm đầy #acid hyaluronic #calcium hydroxyapatite
Sử dụng Technegas như một hợp chất phóng xạ để đo lường tốc độ làm rỗng dạ dày Dịch bởi AI
European Journal of Nuclear Medicine - Tập 26 - Trang 903-906 - 1999
Nhiều hợp chất phóng xạ và bữa ăn thử nghiệm được sử dụng để đo lường tốc độ làm rỗng dạ dày không đạt yêu cầu tối ưu. Một bữa ăn rắn có nguồn gốc từ thực vật, như cơm, được đánh dấu bằng một hợp chất phóng xạ có khả năng đo lường tốc độ làm rỗng dạ dày của chất lỏng, có khả năng sẽ là lý tưởng. Nghiên cứu đã đánh giá vai trò của Technegas như một dấu hiệu đồng vị phóng xạ để đo lường tốc độ làm rỗng dạ dày của cơm và chất lỏng. Cơm đánh dấu bằng Technegas đã được ươm trong dung dịch muối sinh lý 0,9%, axit hydrochloric 1 M và dịch vị giả (3,2 g/l pepsinogen, pH 2-3) để đánh giá độ ổn định của nhãn. Trên tám người tình nguyện khỏe mạnh, tốc độ làm rỗng dạ dày của hai bữa ăn – 200 g cơm (370 kcal) và 75 g dextrose hòa tan trong 300 ml nước (300 kcal), cả hai đều được đánh dấu bằng 20 MBq Technegas – đã được đo lường bằng phương pháp quang hình học. Trong 4 giờ, độ ổn định trung bình của nhãn là 93,7%±0,5% trong dung dịch muối sinh lý 0,9%, 91,0%±0,4% trong axit hydrochloric 1 M và 93,6%±0,7% trong dịch vị giả. Giai đoạn trễ kéo dài hơn với cơm so với dextrose (25±7 phút so với 4±2 phút; P<0.05), nhưng không có sự khác biệt về tỷ lệ làm rỗng sau giai đoạn trễ (2,1±0,3 kcal/phút so với 1,7±0,2 kcal/phút; P=0,2) giữa hai bữa ăn. Chúng tôi kết luận rằng Technegas là một hợp chất phóng xạ phù hợp để đo lường tốc độ làm rỗng dạ dày của cơm và các chất lỏng chứa dinh dưỡng.
#Technegas #tốc độ làm rỗng dạ dày #hợp chất phóng xạ #cơm #dextrose
Nghiên cứu động học nâng vùng giữa mặt trong quá trình tiêm chất làm đầy axit hyaluronic bằng siêu âm Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 47 - Trang 2661-2676 - 2022
Lão hóa vùng giữa mặt liên quan đến sự thiếu hụt thể tích trong nhiều đơn vị giải phẫu, bao gồm cung gò má, vùng dưới mắt, má trong và ngoài cũng như nếp nhăn mũi-môi (NLF). Axit hyaluronic (HA) được sử dụng rộng rãi trong các thủ tục trẻ hóa vùng giữa mặt xâm lấn tối thiểu. MD CodesTM được đề xuất để thực hiện điều trị kết hợp tại nhiều vị trí nhằm giảm tính biến động của quá trình điều trị và tăng tỷ lệ thành công của các bác sĩ. Mặc dù quy trình chi tiết của kỹ thuật này, hiệu ứng thẩm mỹ và các biến chứng đã được công bố, thông tin giải phẫu của nó vẫn chưa được thảo luận. Bài báo này đã giải thích về các đặc điểm giải phẫu tĩnh và động của MD CodesTM thông qua việc mổ xác và hình ảnh siêu âm. Việc mổ xác và hình ảnh siêu âm giúp chúng tôi xem lại các phương pháp tiêm và nguyên tắc giải phẫu của MD CodesTM. Quy trình điều trị có ba phần: (1) Các tiêm thuốc bolus, phục vụ mục đích nâng, được thực hiện tại điểm trũng nhất dọc theo cung gò má, chỗ lồi gò má, điểm tối ưu nổi bật trong vùng gò má, điểm trũng nhất của NLF trên với 0,2–0,3 ml HA. (2) Các tiêm tuyến tính, nhằm tinh chỉnh đường nét khuôn mặt, được thực hiện tại đệm mỡ sâu của má trong và vùng dưới mắt với 0,4 ml HA. (3) Các tiêm tuyến tính, nhằm thay thế thể tích, được thực hiện tại lớp mỡ dưới da của má ngoài và NLF với 0,8 và 0,4 ml HA. MD CodeTM được dẫn dắt bởi nguyên tắc “liều lượng ít và hiệu quả tốt”, và một thứ tự tiêm đặc biệt được xây dựng dựa trên các đặc điểm giải phẫu. Siêu âm là một công cụ hữu ích để hiểu biết động học về MD CodeTM và hình dung thông tin giải phẫu như các lớp và độ dày. Tạp chí này yêu cầu các tác giả chỉ định cấp độ bằng chứng cho mỗi bài viết. Để biết mô tả đầy đủ về các đánh giá Y học dựa trên bằng chứng này, vui lòng tham khảo Mục lục hoặc Hướng dẫn trực tuyến cho Tác giả tại www.springer.com/00266
Ảnh hưởng của việc làm nóng đáy đường và mái nhà đối với dòng chảy trong các hẻm phố ba chiều Dịch bởi AI
Advances in Atmospheric Sciences - Tập 27 - Trang 513-527 - 2010
Sử dụng mô hình động lực học chất lỏng tính toán (CFD), bài báo nghiên cứu ảnh hưởng của việc làm nóng đáy đường và mái nhà đến dòng chảy trong các hẻm phố ba chiều. Tỷ lệ khía cạnh của tòa nhà và hẻm phố là một. Trong sự hiện diện của việc làm nóng đáy đường, khi cường độ làm nóng tăng lên, năng lượng động học trung bình tăng lên trong hẻm phố theo chiều ngang hình thành bởi các tòa nhà ở thượng nguồn và hạ nguồn, nhưng giảm trong khu vực phía dưới của hẻm phố theo chiều dòng chảy. Sự gia tăng động lượng do lực đẩy nổi làm gia tăng dòng chảy do cơ học được thúc đẩy trong hẻm phố theo chiều ngang. Độ cuộn xoáy trong hẻm phố chiều ngang trở nên mạnh mẽ hơn. Sự gia tăng nhiệt độ không lớn vì không khí trên mức mái tương đối lạnh đi vào hẻm phố theo chiều ngang. Trong sự hiện diện của cả việc làm nóng đáy đường và mái nhà, năng lượng động học trung bình lại giảm trong hẻm phố theo chiều ngang. Điều này xảy ra do sự giảm tốc độ dòng chảy theo phương ngang ở mức mái, dẫn đến việc suy yếu tuần hoàn dòng chảy trung bình trong hẻm phố theo chiều ngang. Nó được phát hiện rằng độ cuộn xoáy trong hẻm phố chiều ngang yếu đi. Sự gia tăng nhiệt độ tương đối lớn so với trường hợp làm nóng đáy đường, vì không khí trên mức mái tương đối ấm đi vào hẻm phố theo chiều ngang.
#động lực học chất lỏng #mô hình CFD #dòng chảy #hẻm phố ba chiều #nhiệt độ #năng lượng động học
Đánh giá oxy hóa thận bằng quang phổ hồng ngoại gần trong quá trình tiêm nội soi chất làm đầy ở trẻ em bị trào ngược bàng quang - niệu quản Dịch bởi AI
Pediatric Surgery International - Tập 39 - Trang 1-7 - 2023
Quang phổ hồng ngoại gần (NIRS) là phương pháp đo lường độ oxy hóa mô khu vực (rSO2) bằng cách phân tích tín hiệu oxyhemoglobin và deoxyhemoglobin trở lại khi truyền ánh sáng hồng ngoại gần vào mô. Tác động của các can thiệp nội soi đến tưới máu thận ở trẻ em vẫn chưa được biết đến nhiều. Mục tiêu là đánh giá tác động của việc tiêm chất làm đầy bằng nội soi (EIBA) cho trào ngược bàng quang niệu quản (VUR) đến oxy hóa thận (RO) bằng cách sử dụng theo dõi NIRS thận, cho thấy sự thay đổi trong tưới máu và oxy hóa thận. Nghiên cứu trường hợp - đối chứng. Nhóm I đã phẫu thuật bẹn hai bên, nhóm II đã thực hiện nội soi bàng quang, và nhóm III được tiêm EIBA cho VUR với 30 bệnh nhân trong mỗi nhóm. Trong quá trình phẫu thuật, các dấu hiệu sinh tồn, độ bão hòa oxy ngoại vi, carbon dioxide khi kết thúc thở ra, và chỉ số độ bão hòa oxy khu vực thận (rSO2) được ghi lại thông qua theo dõi NIRS thận hai bên. Các giá trị NIRS từ trước gây mê (T0) đến sau phẫu thuật (Tend) đã được xác định. Việc giảm 20% hoặc nhiều hơn trong rSO2 thận (%20↓rSO2) được coi là có ý nghĩa. Nhóm III cũng được đánh giá như nhóm phụ III-A (không có “%20↓rSO2”) và nhóm phụ III-B (“%20↓rSO2”). Sự giảm rSO2 được quan sát thấy trong 5 phút đầu tiên ở cả hai bên trong nhóm III. Sự sụt giảm lớn nhất được ghi nhận tại T30 cho thận bên phải và sự giảm rSO2 đáng kể, 20% hoặc nhiều hơn, được nhận thấy ở 6 đơn vị thận của 4 bệnh nhân có độ xếp hạng SFU cao hơn và sẹo thận trong nhóm III. EIBA có thể tạm thời làm giảm oxy hóa thận. Độ xếp hạng SFU cao hơn và sẹo thận có thể làm tăng nguy cơ hạ oxy thận trong quá trình EIBA.
#quang phổ hồng ngoại gần #oxy hóa thận #tưới máu thận #trào ngược bàng quang-niệu quản #tiêm nội soi chất làm đầy
Kích thích dây thần kinh cùng sacrum trong điều trị tình trạng mất kiểm soát phân cải thiện triệu chứng, chất lượng cuộc sống và sự hài lòng của bệnh nhân: kết quả từ một loạt trường hợp đơn tâm 119 bệnh nhân Dịch bởi AI
International Journal of Colorectal Disease - Tập 28 - Trang 227-233 - 2012
Kích thích dây thần kinh cùng sacrum (SNS) đã được chứng minh là một phương pháp điều trị hiệu quả cho tình trạng mất kiểm soát phân (FI). Tuy nhiên, các kết quả dài hạn còn hiếm hoi trong tài liệu. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá tác động của SNS đối với triệu chứng FI và chất lượng cuộc sống, dựa trên phân tích hồi cứu dữ liệu thu thập theo phương pháp hướng tới tương lai. Từ năm 2001 đến 2009, 119 bệnh nhân (sáu nam giới, độ tuổi trung bình 61 tuổi) đã trải qua thử nghiệm SNS cho FI sau khi đã thực hiện một quy trình chẩn đoán toàn diện. Việc cấy ghép vĩnh viễn được thực hiện khi triệu chứng FI cải thiện trong khi thử nghiệm, và các buổi tái khám được thực hiện mỗi 12 tháng sau đó. Theo dõi này đã đánh giá tỷ lệ bệnh tật và hiệu quả, dựa trên dữ liệu lâm sàng và bảng hỏi tự thực hiện bao gồm điểm số FI theo Jorge và Wexner, điểm số mất kiểm soát tiểu (câu hỏi đánh giá mức độ lo âu về tiểu tiện-6, UDI-6), chỉ số chất lượng cuộc sống liên quan đến tiêu hóa (GIQLI), và thang đo tự đánh giá. Một thiết bị kích thích vĩnh viễn đã được cấy ghép sau một thử nghiệm dương tính ở 102 bệnh nhân (91%). Mười bệnh nhân đã phải rút bỏ thiết bị trong suốt quá trình theo dõi (đau ở một trường hợp và không có hiệu quả ở chín trường hợp), và 29 bệnh nhân đã phải thay đổi thiết bị và/hoặc điện cực. Thời gian theo dõi trung bình là 48 tháng (biên độ từ 12 đến 84 tháng): đã có sự cải thiện đáng kể về điểm số FI (9 ± 1 so với 14 ± 3, p < 0.0001), điểm số UDI-6 (8 ± 4 so với 11 ± 5, p < 0.05), và chỉ số GIQLI (p < 0.002). Sự cải thiện này xuất hiện sau 12 tháng theo dõi và vẫn ổn định. Tám mươi phần trăm bệnh nhân hài lòng với phương pháp điều trị tại điểm theo dõi cuối cùng. Không có biến số nào trước điều trị có thể dự đoán hiệu quả của SNS. SNS đã cải thiện tình trạng FI và chất lượng cuộc sống, và hiệu quả này duy trì theo thời gian. Mặc dù sự biến mất hoàn toàn tình trạng FI là hiếm, nhưng hầu hết bệnh nhân đều hài lòng.
#kích thích dây thần kinh cùng sacrum #mất kiểm soát phân #chất lượng cuộc sống #sự hài lòng của bệnh nhân #nghiên cứu lâm sàng
Tổng số: 17   
  • 1
  • 2